Kỷ nguyên mới ở Philadelphia! Vua phá lưới mà không có bóng?
Hôm qua, trong trận đấu giữa 76ers với Bucks, Maxey đã ghi được 54 điểm cao nhất trong sự nghiệp, giúp đội giành chiến thắng trong hiệp phụ.
Đối với Maxi mùa này, sự bùng nổ như vậy không phải ngẫu nhiên.

Tính đến thời điểm hiện tại của mùa giải mới, Maxi đã ghi trung bình 33,4 điểm mỗi trận, đứng thứ hai trong danh sách ghi bàn của giải đấu, chỉ sau 34,6 điểm của Doncic. Kết hợp với ba tỷ lệ bắn của anh ấy, 47% + 42% + 88%, chứng tỏ hiệu quả tấn công của Maxi không chỉ là một bàn chải dữ liệu.
54 điểm trong một trận đấu là lần thứ ba Maxi ghi được hơn 40 điểm trong một trận đấu trong mùa giải này. Kể từ đầu mùa, thành tích ghi bàn trong mọi trận đấu của anh đều đạt ngưỡng cơ bản là 20 điểm, đủ cho thấy sự ổn định trong tấn công của Maxi.
Ngoài phong độ hiệu quả của các cầu thủ, ngay cả khi hai tuyển thủ chủ chốt Embiid và George vắng mặt nhiều trận, 76ers vẫn đứng thứ sáu trong khu vực an toàn playoff tại Eastern Conference với 9 trận thắng và 6 trận thua. Với màn trình diễn của đội này, Maxi, người đã duy trì việc tham dự đầy đủ trong 15 trận đấu, chắc chắn có thể được coi là người đóng góp số một.
Mặc dù là thủ lĩnh của đội ghi bàn hàng đầu giải đấu nhưng chế độ tấn công của Maxi khá đặc biệt so với các cầu thủ ghi bàn khác. Người ta hiếm khi thấy anh ta thực hiện các động tác chọn và cuộn ở đầu vòng cung, hoặc dựa vào khả năng kiểm soát chuyển động tuyệt vời để vượt qua hàng phòng thủ và hoàn thành các trận đánh đơn.

Đánh giá từ dữ liệu, tỷ lệ tấn công của Maxi với tư cách là người xử lý bóng nhặt và lăn cho đến thời điểm hiện tại trong mùa giải này chỉ là 25,3% và tỷ lệ cô lập của anh ấy chỉ là 13,4%. Nhìn vào giải đấu, hai số liệu này quả thực khó có thể xếp Maxi lên vị trí đầu tiên của giải đấu. Cả chất và lượng đều chỉ ở mức trung và thấp ở hàng hậu vệ của giải đấu.
Thật khó để không thắc mắc, thủ lĩnh mới của 76ers đã trở thành cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu như thế nào?
Dựa trên những điều trên, hiệu suất đánh đơn và hiệu quả tấn công theo kiểu chọn và cuộn của Maxi trong mùa giải này vẫn còn khá thấp. Sự thay đổi quan trọng nhất đến từ pha phạm lỗi không bóng vốn đã nổi bật ở mùa giải trước. Dữ liệu này đã được trực tiếp nâng lên cấp cao nhất trong mùa giải này. Trong số đó, ba điểm tấn công gồm phạm lỗi bằng tay, phạm lỗi chuyển tiếp và phạm lỗi không bóng xung quanh màn hình nằm trong top 5 điểm của giải đấu.
Chỉ xét về cách phân bổ điểm số, chế độ tấn công của Maxi không khác gì mùa giải trước. Nhưng liệu điểm trung bình mỗi trận của Maxi có thể tăng lên nhiều như vậy chỉ bằng cách cải thiện hiệu quả tấn công không bóng?

Nhìn vào chi tiết, điểm khác biệt lớn nhất giữa Maxi mùa này và mùa trước là anh ấy đã phát huy tối đa lợi thế tấn công không bóng xuất sắc của mình và thực hiện các pha tấn công đơn giản hơn, từ đó che giấu những khuyết điểm hiện tại về khả năng kiểm soát và rê bóng cũng như khả năng tấn công độc lập chưa đủ ổn định.
Về xu hướng chủ đạo hiện nay trong giải đấu, phần lớn cốt lõi giữ bóng ở sân sau là giữ bóng lâu để kích hoạt đợt tấn công của đội. Tuy nhiên, Maxi dường như đang đi theo hướng ngược lại. Thay vào đó, bằng cách giảm khả năng cầm bóng và rê bóng, anh bất ngờ đạt được số điểm trung bình mỗi trận thứ hai giải đấu.
Từ góc độ của trò chơi, hành vi phạm lỗi không bóng đơn giản không thực sự có nghĩa là bắn đơn giản. Mặc dù hiệu quả tấn công và dứt điểm độc lập của Maxi sau khi rê bóng trong thời gian dài không nổi bật, nhưng anh ấy vẫn có khả năng dứt điểm rê bóng đơn giản khi không có bóng:
Chẳng hạn như một số pha đột phá thẳng, ném gần khung thành hoặc một vài bước lùi tầm trung sau khi rê bóng, những màn chạm tay và trực tiếp ba điểm tầm xa, v.v. phức tạp, đơn giản và đủ rõ ràng, đồng thời có thể phát huy tối đa kỹ năng dứt điểm và lợi thế sát thương đột phá của anh ta.

Lý do chính khiến

có thể làm được điều này là nhờ khả năng di chuyển khi không có bóng của Maxi, đặc biệt là khả năng tăng tốc trên đường thẳng. Và kỹ năng tấn công nổi bật nhất của anh là sau khi nhận được đường chuyền từ đồng đội, anh lợi dụng hàng phòng ngự không vững chắc của đối thủ để trực tiếp nắm bắt sơ hở của đối thủ và xâm nhập.
Hầu hết đối thủ sẽ không có thời gian để phòng thủ và ngay cả khi đối thủ có thể giúp phòng thủ tốt thì phần lớn họ chỉ có thể trả giá cho những pha phạm lỗi khi gặp phải tác động. Điều này cũng giúp Maxi thực hiện trung bình 8,2 quả ném phạt mỗi trận ở mùa giải này, mức trung bình ném phạt cao nhất trong sự nghiệp của anh ấy.
Do có khả năng đột phá và tiêu diệt nên nhiều người phòng thủ sẽ chọn cách rút lui khi đối mặt với màn đánh tay đôi của Maxi. Lúc này, Maxi cũng có thể trực tiếp đáp trả đối thủ bằng cú ba điểm siêu dài, hoặc sau vài pha rê bóng đơn giản để tìm nhịp, trực tiếp chọn lùi lại và tung cú sút tầm trung.
Đánh giá từ quá trình trò chơi, mặc dù những đòn tấn công này không hề đơn giản, nhưng đối với Maxi, người có khả năng dứt điểm xuất sắc và khả năng tấn công không bóng mạnh mẽ, chế độ tấn công này đơn giản hơn nhiều so với những người xử lý bóng nhặt và lăn như Harden và Doncic.

Ngược lại với lợi thế về tốc độ ở trạng thái không bóng, bước đầu tiên Maxi đột phá với bóng không nhanh lắm; và khả năng kiểm soát không đủ ổn định gây khó khăn cho việc huy động hậu vệ thông qua rê bóng, hay sử dụng các màn pick-and-roll để chủ động tạo cơ hội tấn công.
Vì vậy, nếu pha phạm lỗi của đội yêu cầu Maxi phải cầm bóng cô lập trong thời gian dài thì hiệu quả tấn công thường sẽ không tốt cho lắm. Ngoài ra, vẫn còn rất nhiều điều cần cải thiện trong cách phân phối loạt trận của anh ấy khi đối đầu với nhiều đội đôi. Kỹ năng ghi điểm đơn giản cũng rất dễ rơi vào thế tấn công đơn điệu khi đối mặt với hàng phòng ngự một chọi một của đàn anh và khả năng phán đoán phòng ngự của đối thủ tương đối đơn giản.
Xét từ góc độ này, đây cũng là phần cần đặt dấu hỏi trong chiến thuật đánh đơn của 76ers cho Maxi mùa này.
Dựa trên bảng dữ liệu cá nhân, dữ liệu trung bình của Maxi tại những thời điểm quan trọng trong năm nay là 3,9 điểm, 0,6 hỗ trợ và 0,5 lần chuyển hướng, cùng với tỷ lệ bắn ba điểm bổ sung là 40% + 27% + 95%.

Dữ liệu này không có gì đáng ngạc nhiên. Điểm mạnh của Maxi không nằm ở việc ghi bàn trong nội dung đánh đơn mà nằm ở việc đánh giá phương thức tấn công đáng tin cậy nhất bằng cách dựa vào lợi thế về tốc độ và khả năng dứt điểm sau khi đội hình phòng ngự của đội được huy động.
Tham khảo hai số liệu thống kê khác, tỷ lệ kiến tạo ghi bàn của Maxi mùa này là 51,2% và tỷ lệ sút xa của anh ấy là 29,3%.. So sánh, hai thống kê này đã vượt qua hầu hết các vệ sĩ ngôi sao trong giải đấu; chẳng hạn như Doncic (25,6% + 9,7%), Alexander (17,9% + 16,8%), Mitchell (33,6% + 17,4%), Brunson (36,4% + 12,7%) và Cunningham (26,7% + 16,5%).
Đặc biệt từ góc độ ghi điểm dữ liệu ở cấp độ nhà vô địch, tỷ lệ kiến tạo để ghi bàn trên 50% là một thống kê tương đối đặc biệt.
Nhìn vào đội, khi cầu thủ ghi bàn dẫn đầu của đội không chiếm bóng, anh ta sẽ không đi về phía yếu mà không có bóng, nhưng có thể hòa nhập vào hàng công của đội để thực hiện những pha chạy cắt không bóng. Anh ấy cũng có tốc độ chạy thuộc top 10 giải đấu và hơn 50% số lần ném 3 điểm mở rộng. Loại mô hình tấn công này có khó bị hạn chế không?

Nếu chỉ phạm lỗi khi có bóng trong tay, đối phương cũng có thể bao vây nhiều người để buộc người giữ bóng phải đánh bóng; nhưng nếu ở trạng thái không có bóng, đối phương về cơ bản chỉ có thể bố trí một hậu vệ phụ trách.
Nhìn vào sự so sánh này, đối với Maxi, việc phòng thủ không có bóng đơn giản hơn nhiều so với có bóng và anh ấy cũng có thể dựa vào lợi thế về tốc độ của mình để thoát khỏi hàng phòng ngự; Chỉ cần hàng phòng ngự của đối phương hơi lơ là, rất có thể Maxi sẽ cắt ngang để bắt bóng và tấn công vào rổ, hoặc chạy xuống góc dưới tung cú ba điểm sơ hở khiến hậu vệ này bỏ chạy.
Nhìn vào bảng dữ liệu ghi điểm của Maxi, anh ấy ghi trung bình 33,4 điểm mỗi trận. Trong 4/4 trận đấu, anh ghi trung bình hơn 7 điểm mỗi trận, nhưng chưa bao giờ vượt quá 9 điểm. Về cơ bản không có giai đoạn xuất sắc và suy thoái riêng biệt, điều này đủ cho thấy khả năng ghi bàn ổn định của anh ấy về cơ bản không bị ảnh hưởng bởi chất lượng chạm bóng tấn công của anh ấy.
Rõ ràng bản thân Maxi cũng hiểu được những khuyết điểm trong tấn công của mình. Khả năng đánh đơn cá nhân hiện tại của anh ấy chưa đạt đến trình độ cao nhất nên anh ấy chọn cách hòa nhập vào vòng quay tấn công của đội trong các pha tấn công không bóng và phản công nhanh, đồng thời nắm bắt hầu hết các cơ hội ghi bàn đơn giản.

Do đó, chúng tôi quay trở lại cấp độ nhóm. Mặc dù Maxi hiện không có các thuộc tính cốt lõi và cầm bóng hàng đầu để tự mình thực hiện các pha tấn công của đồng đội, nhưng chúng ta có thể cần phải nhận ra một điểm khác. 76ers mùa này không còn là một đội bóng đơn điệu xoay quanh một cầu thủ duy nhất.
Khi đội từ bỏ thói quen trước đây và mô hình tấn công có tính dự đoán cao, bất kỳ ai trong đội, chẳng hạn như Maxey, Edgecombe, Grimes, George, McCain, Embiid, Watford, Walker, v.v., đều có thể trở thành người khởi xướng cuộc tấn công tấn công của đội hoặc là người kết thúc cuối cùng trong vòng tấn công.
Đối với Maxi, ở giai đoạn này, anh ấy tình cờ là người kết thúc tấn công tốt nhất sau khi cả đội tạo ra các cơ hội ghi bàn, thậm chí không phải một trong số đó. Đánh giá từ khía cạnh này, nếu huấn luyện viên Nurse của 76ers có thể chú ý đến điều này, ông ấy có thể sẽ không có chiến thuật đáng xấu hổ là sắp xếp ba vệ sĩ thay phiên nhau chơi đơn trong vài trận đầu tiên.
Với sự trở lại của Paul George, đội hình của 76ers đã hoàn chỉnh. Trong tương lai, Nurse sẽ có thể tập hợp một đội hình cốt lõi bao gồm Maxey + Edgcomb + George + Watford + Embiid. Cả năm cầu thủ trên sân đều có thể xử lý tình huống phạm lỗi và cũng có thể chịu trách nhiệm tiếp nhận và dứt điểm.

Chỉ xét về mặt tấn công, đây chắc chắn là một đội gồm 5 người rất khó hạn chế và Maxi sẽ là người nổi bật nhất và lâu nhất trong tổ hợp tấn công này và khó hạn chế nhất.